Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2024

Đọc bài thơ Gởi Kiều Nữ Vô Danh cùng tác giả Phạm Ngọc Lư

Người viết chưa có dịp diện kiến tác giả Phạm Ngọc Lư ngoài đời.Nhưng thời gian ngắn qua đã được đọc và cảm nhận một số tác phẩm của tác giả đăng trên Facebook.Đặc biệt sau khi đồng cảm với Biên Cương Hành…Với riêng cá nhân người viết và có lẽ không ít bạn đọc yêu thơ Phạm Ngọc Lư thì chỉ một bài Hành ấy thôi đã đủ làm nên một tên tuổi đáng kính…
Dòng thơ của tác giả Phạm Ngọc Lư thực sự cuốn hút người viết, để rồi hôm nay gặp được bài thơ tác giả viết cho người phụ nữ Vô Danh mang thân phận một Nàng Kiều thời hiện đại:

GỞI KIỀU NỮ VÔ DANH

Em mấy mùa vung vãi phấn hương?
Mà đêm nay rũ rượi y thường
Nhìn ta đôi mắt như ngâm rượu
Xanh lét bàn tay rót tang thương
Quán tù mù như một âm cung
Rượu phù hoa rót chén phù dung
Một ly thâm tạ tình nhan sắc
Hai ly bái kiến nợ đào hồng
Em khuấy tiếng cười pha giọt lệ
Rót mời ta cạn một biển lòng
Sao mắt chua như màu rượu bạc
Cứ cụng đầu như cụng thinh không
Gặp nhau như thể trong thơ truyện
Cũng lệ Tầm Dương ươn ướt tình
Chỉ tiếc đời bặt tăm Từ Hải
Em đành vương víu nợ Thúc Sinh
Hương phấn mấy mùa thôi góp lại
Dọn mình đi ta gởi đóa hồng
Đêm nay tương kiến là tương biệt
Mai em về một bến nước trong? (Phạm Ngọc Lư, 2003)

Năm khổ thơ với hai mươi câu thơ là những lời trần tình, tâm sự, là tiếng lòng cảm thông, là lời khuyên nhủ, là khát vọng, là sự chia sẻ với một thiếu nữ tác giả gọi là Vô Danh. Chủ thể trữ tình Em…
Không khỏi ngậm ngùi khi đọc Gửi Kiều Nữ Vô Danh, bất giác người viết nhớ tới Cảnh Đoạn Trường của Thái Can
Đứng dậy em ơi sống cõi đời
Đời dầu khổ nhục đến mười mươi
Em nên điểm phấn tô son lại
Ngạo với nhân gian một nụ cười”
Ngày ấy Bác sĩ Thái Can sau khi cứu sống một vũ nữ tự vẫn, nghe cô nói “đời em buồn” mà ông để lại Cảnh Đoạn Trường sống mãi tới hôm nay…Phải chăng bài thơ được nhiều thế hệ bạn đọc nhắc nhớ, một phần nhờ khổ thơ chuyên chở lời khuyên nhủ đầy tính cảm thông cùng “lối tư tưởng Nghệ thuật vị nhân sinh” sâu sắc trên đây!
Hôm nay tác giả Phạm Ngọc Lư cùng Gửi Kiều Nữ Vô Danh với bối cảnh không ở giữa lằn ranh của sự sống và cái chết của Kiều Nữ… mà là một lần “tương kiến” ngay tại “quán tù mù”. Nơi ấy có tiếng cười hiếm hoi trong thơ của tác giả, tiếng cười này không nghe thấy, không nhìn được mà phải uống, ngay cả người viết cũng cảm nhận thật khó uống khi mà:
Em khuấy tiếng cười pha giọt lệ
Rót mời ta cạn một biển lòng
Sao mắt chua như màu rượu bạc
Cứ cụng đầu như cụng thinh không
Khổ thơ với rất nhiều động từ, tính từ như: khuấy, pha, rót, cạn, cụng… được sử dụng như phép đối trong thơ, cùng với “tiếng cười, giọt lệ’ rồi “một biển lòng” được chủ thể Em mời cạn, bên cạnh ánh mắt được so sánh với “màu rượu bạc” và đôi mắt ấy còn khiến cho người đối diện cảm nhận được vị “chua” trong ánh nhìn …Nhất là khi “Cứ cụng đầu như cụng vào thinh không”! Chua chát của đời người thấm đẫm cả trong ánh nhìn ấy? Hay chua chát của “một biển lòng” trào lên ẩn chứa trong cái nhìn, khiến người đối diện cảm thấy “màu rượu bạc” lan tỏa…
Làm sao mà không cạn được đây? Dẫu cho phải cạn cả một biển lòng hoặc nhiều hơn thế nữa !Thì cũng uống bởi em đã khuấy cả niềm vui trộn lẫn nỗi buồn tủi rồi mời cơ mà Làm sao mà có tiếng cười chua chát nghẹn ngào đến thế? Phải chăng bất cứ ai đọc đến đây đều ngậm ngùi dừng lại, hay chỉ mình tác giả, mình tôi…
Và khi cả hai chủ thể trữ tình Ta và Em lại chìm đắm trong một không gian ảm đạm, không kém phận đời của người mang đôi mắt “chua như màu rượu bạc”
Quán tù mù như một âm cung
Rượu phù hoa rót chén phù dung
Một ly thâm tạ tình nhan sắc
Hai ly bái kiến nợ đào hồng
Một không gian “tù mù như một âm cung” ư? Không, hình như là một không gian mờ ảo lãng mạn bao trùm hai người đấy chứ!
Còn Rượu! Theo lẽ thường chỉ có rượu mạnh,rượu chát, rượu đế…” nay trong hình tượng thơ ca có thêm “rượu phù hoa”? Rượu phù hoa? Hay chốn phù hoa? Ừ cứ cho là có “rượu phù hoa” đi chăng nữa thì rượu ấy đang được rót vào “chén phù dung”. Ôi! Cánh hoa phù dung “sớm nở tối tàn” thường được ví như thân phận người phụ nữ “hồng nhan bạc phận” lại được dùng để mà “Một ly… Hai ly…Ly nợ đào hồng? ly tình nhan sắc? Bái kiến gì nhau với cảnh sầu thương ảm đạm đến tận sâu thẳm lòng người vậy?
Đây rồi! chủ thể Em có lẽ cũng chính là người đang rót “rượu phù hoa”, đã được tác giả khắc họa qua những câu thơ cũng là câu hỏi:
Em mấy mùa vung vãi phấn hương?
Mà đêm nay rũ rượi y thường
Nhìn ta đôi mắt như ngâm rượu
Xanh lét bàn tay rót tang thương
Trời ạ! Ngôn ngữ thơ ca thường hay ca ngợi vẻ đẹp đài các kiêu sa của người thiếu nữ, hay vẻ đẹp giản dị chân quê …Ở đây, Em của tác giả dáng vẻ bên ngoài với quần áo thì “rũ rượi...”, thần sắc thì “xanh lét bàn tay” và đôi mắt, cửa sổ tâm hồn thì không còn sức sống nữa..Từ đôi mắt ấy gieo vào lòng người đối diện một ánh nhìn “như ngâm rượu”!Thêm một động từ rót nữa nhưng không còn rót rượu mà đã chuyển qua rót tang thương! Rượu phù hoa còn có chén phù dung để rót. Tang thương đang được đôi bàn tay xanh lét rót đi đâu? Phải chăng đang rót từ quá khứ vào thực tại? Hay rót tới tương lai, Hai chữ “tang thương” quả thật đã làm đau lòng người khi viết, khi đọc và khi cảm nhận…
Hai chữ tang thương ấy phải chăng là phận đời tủi nhục mà Em đã và đang trải qua chưa biết mấy mùa, nhưng một khúc sông buồn là đây:
Gặp nhau như thể trong thơ truyện
Cũng lệ Tầm Dương ươn ướt tình
Chỉ tiếc đời bặt tăm Từ Hải
Em đành vương víu nợ Thúc Sinh
Trong thơ nào? Chuyện nào? Và cảnh gặp nhau chưa thấy đâu? Chỉ thấy cũng có giọt lệ chia ly của kẻ ở người đi như tác gỉa đã mượn bến Tầm Dương để mô tả. Nhưng với tính từ “ươn ướt” thì nó đã là điềm báo cho một thứ tình cảm không lấy gì làm vui hay niềm hy vọng cho Em với câu chuyện tình.
Kiều trong thơ của đại thi hào Nguyễn Du vì chuộc cha mà phải bán mình để rồi còn an ủi là gặp được Từ Hải sau khi bị Hoạn Thư vợ Thúc Sinh đánh ghen…Còn Kiều Nữ Vô Danh thì lại đang vương víu nợ Thúc Sinh thời hiện đại, bởi Từ Hải đã chết đứng từ trong truyện Kiều lâu rồi, nay tìm đâu có Từ Hải thời hiện đại để cứu Em được nữa…
Thôi! dù cay đắng, dù xót xa, thân phận Kiều Nữ Vô Danh “mười hai bến nước”nào biết đục trong? cũng đành phó thác đời mình cho số phận đẩy đưa…Hãy nghe lời khuyên , cũng là một khổ kết có hậu, được viết ra từ trái tim đa cảm của một “Tao Nhân” đa sầu…
Hương phấn mấy mùa thôi góp lại
Dọn mình đi ta gởi đóa hồng
Đêm nay tương kiến là tương biệt
Mai em về một bến nước trong?
Vậy là đã rõ, người cạn một ly... hai Ly… “Rượu phù dung” được khuấy tan tiếng cười và giọt lệ hòa chung.Đêm nay cùng Em “Tao nhân”cũng chỉ là khách qua đường, như bao người khách xưa nay đến mua vui rồi đi…Chẳng biết “đã mấy mùa vung vãi phấn hương”rồi nữa.Nhưng đêm nay nhìn em “rũ rượu y thường…” Người ấy đã cùng em “cạn một biển lòng” và bây giờ thì nhắc lại “hương phấn mấy mùa…” nhưng không hỏi nữa mà khuyên “Thôi góp lại” để mà “dọn mình đi”.Thêm một lần Ta xuất hiện nữa, Ta với ngôi thứ hai hay là ngôi thứ ba? Người viết không cần biết nữa..Chỉ biết rằng Ta xuất hiện bây giờ là để “gửi đóa hồng”, rồi thì “tương biệt”.
Và có lẽ sau khi từ biệt, Ta cũng sẽ có một tấm lòng như nhà thơ Thái Can
Ngày mai ở mãi chốn chân trời
Trong cảnh gia đình ấm áp vui
Một phút trầm ngâm anh sẽ khấn
Cho em trở lại được cười tươi (Cảnh Đoạn Trường-Thái Can)
Bác sĩ nhà thơ Thái Can hay Ta chủ thể trữ tình của tác giả Phạm Ngọc Lư, đều gửi gắm tâm tư tình cảm, cũng như lòng nhân đạo cảm thông sâu sắc cho những mảnh đời phụ nữ không may bị hoàn cảnh đưa đẩy phải kiếm sống bằng nghề thường được coi là dưới đáy tận cùng của xã hội....
Tác giả, cũng như người viết bài này và mong rằng bạn đọc có cùng chung ý nghĩ, cầu mong cho Kiều Nữ Vô Danh “đêm nay tương kiến là tương biệt”. Để hy vọng rằng “mai em về một bến nước trong”. Vâng ở “bến nước trong” ấy có một căn nhà nhỏ, có một bờ vai vững chãi, có tiếng khóc cười của trẻ thơ…Và từ căn nhà ấy vọng ra tiếng hát:
“Khóc cho vơi đi những nhục hình.
Nói cho quên đi những tội tình.
Đời con gái cũng cần dĩ vãng
Mà em tôi chỉ còn tương lai…” (Bài không tên số 4-Vũ Thành An)
Bài thơ Gửi Kiều Nữ Vô Danh của tác giả Phạm Ngọc Lư. từng câu từng từ viết ra đều chuyên chở một sự đồng cảm, sẻ chia. Không chỉ với thân phận cá nhân Kiều Nữ Vô Danh, mà có lẽ anh còn mong muốn chia sẻ cảm thông tới rất nhiều mảnh đời phụ nữ, đang phải trôi nổi dập dềnh trong ngập ngụa, đục ngầu bể dâu cuộc đời, Dẫu muốn họ cũng chưa có cơ hội “dọn mình” để “Mai em về một bến nước trong”!
Sài Gòn 19/1/2015
Huỳnh Xuân Sơn

Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2020

NHỜ NGƯỜI ĐẦU ẤP GỐI TAY



Nhờ Người Đầu Âp Gối Tay

Em không thể hỏi ai
Về chiếc áo dài muốn chọn
Để cùng chị cùng em
Khoe dáng
Trong ngày quần tụ bên nhau.


Chỉ có thể hỏi anh
Người thường bên cùng mộng
Rằng sắc màu , dài rộng
Kín đáo, đoan trang ?
Phụ nữ Việt Nam
Khả ái dịu dàng.

Em luôn thích
những gam màu tươi sáng
Như cánh hoa thơm
Nở giữa núi rừng,
Như tình mình
Sau bao ngày đấu cật chung lưng
Sẻ chia bùi ngọt.

Lòng em đang vui
Rộn ràng chim hót
Trời Sài gòn
Thiếu em nên không mát
Màu tím sen hồng
Tha thướt lụa Tình Nhân
Ơi anh ! rượu ngọt môi mềm!

Xuân Canh Tý 2020
Huỳnh Xuân Sơn

Thứ Năm, 6 tháng 2, 2020

KHI ĐÃ YÊU NGƯỜI



Khi Đã Yêu Người


Cơn gió lọt qua khung cửa
Mang theo hơi lạnh đầu mùa
Ngày mai tình không còn nữa
Buồn rơi theo mấy hạt mưa


Gíá rét đong đầy ký ức
Co ro một dạo yêu người
Nhịp tim buồn trong lồng ngực
Yêu người từ thuở hai mươi


Bàn tay xoa... xua nỗi nhớ
Làm sao che kín bàn tay
Mai em trở về phố chợ
Mưa phùn che khuất thân gầy


Tuổi em đông buồn mấy độ
Từ khi biết đã yêu người
Thôi đừng trách nhau duyên số
Mùa đông buốt lạnh một đời


Nay ta trở về chốn cũ
Nhìn em lận đận bên đời
Bạc đầu làm thân lữ thứ
Người yêu ơi! Dáng xưa ơi!



(Huỳnh Xuân Sơn

Thứ Bảy, 10 tháng 8, 2019

CƠN SỐT ĐẤT của Thanh Trắc Nguyễn Văn




CƠN SỐT ĐẤT

Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở. 
Khi ta đi đất bỗng hoá tâm hồn. (Tiếng Hát Con Tàu - Chế Lan Viên) 
Hay: “Đất vắng cây đất ngừng ngừng hơi thở…Cây thiếu đất cây sống sống với ai?” (Tình cây và đất -Tô Thanh Tùng) 
Có lẽ bất cứ ai trong mỗi chúng ta khi nghe những câu thơ, lời hát ấy ít nhiều đều có cảm xúc bồi hồi nhớ về những nơi mình đã đi qua, đã ở lại, được đánh dấu bằng những địa danh mang tên Đất, tên Nước. Và có lẽ sẽ thêm yêu hơn quê hương, yêu hơn cuộc sống của mình. Đất đi vào thơ vào nhạc phần đông là tình thơ, ý nhạc dạt dào tình cảm, ca ngợi vẻ đẹp của quê hương. 
Vậy mà hôm nay tôi rất ngỡ ngàng gặp một tâm trạng của thầy giáo nhà thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn. Anh viết về Đất… Bài thơ có tựa đề 

Cơn Sốt Đất. 

Khi ta về cơn sốt đất đang cao
Đồng tiền quẳng ra trên những đống gò ao bãi 
Quán xá lềnh khênh 
Nhạc tình rơi vãi 
Giữa dòng đời ai nghiêng ngả 
Ngả nghiêng? 
Từng ngôi nhà hối hả mọc chông chênh 
Vội thay mặt chủ sau mỗi lần được giá 
Vườn ruộng ông cha giờ cháu con đem mặc cả 
Tấc đất tấc vàng 
Trong hai tiếng bán buôn. 
Khi ta về nước mắt mẹ đang tuôn 
Một hố lầy hoang cũng giật giành xỉa xói 
Anh em nhìn nhau nghi ngờ soi mói 
Chửi rủa trước nhà 
Dao búa sau lưng. 
Mẹ một đời người vẫn buôn thúng bán bưng 
Thương đàn cháu đói lại đường xa chạy gạo 
Đất chưa hóa vàng đã từng giờ rỉ máu 
Bao nhân nghĩa cuộc đời theo nước lã trôi sông. 


Khi ta về biết em nhớ hay không? 
Hàng dâm bụt tuổi thơ đã không còn đó nữa 
Một bức tường vôi mảnh chai găm tua tủa 
Ngăn trở lòng người 
Cứa nát những vì sao. 
Ta bàng hoàng nghe vị đắng nỗi đau 
Đất cao giá biến nụ cười em băng giá! 
Người yêu cũ nay bỗng dưng xa lạ 
Hỏi tại người 
Hay tại đất 
Mẹ ơi? (Thanh Trắc Nguyễn Văn) 

Bài thơ dừng lại ở câu cảm thán “Mẹ ơi!” và câu hỏi “Hỏi tại người hay tại Đất? khiến cho tôi (một bạn đọc yêu thơ) rất muốn đi tìm nguyên do dẫn đến câu hỏi nhức nhối trai tim người đọc ấy. 
Thể thơ tự do với những ngôn từ được lựa chọn kỹ càng, đã được nhà thơ chọn để gửi gắm vào ý thơ chuyên chở cả một hồn thơ sâu rộng. Nhằm phản ánh một thực trạng đau lòng, một mặt trái của sự phát triển nhanh chóng. Mà đất mang lại cho những chủ nhân của nó…Những điều nhức nhối ấy,khuất lấp sau những gì mà chợt nhìn, chợt thấy cứ ngỡ đó là những giá trị tốt đẹp, là “sự phát triển vượt bậc” mà Cơn Sốt Đất mang đến…Nhưng không! Nhà thơ đang khắc hoạ cơn sốt này theo góc nhìn của riêng mình. 
Góc nhìn dẫn tới mặt trái của bức tranh Cơn Sốt Đất của nhà thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn mở ra trong bối cảnh “Khi ta về…” 
Khi ta về cơn sốt đất đang cao 
Đồng tiền quẳng ra trên những đống gò ao bãi 
Quán xá lềnh khênh 
Nhạc tình rơi vãi 
Giữa dòng đời ai nghiêng ngả 
Ngả nghiêng? 

“Khi ta về…”của nhà thơ (năm 2000) lúc ấy nào đâu chỉ có nơi nhà thơ đến “cơn sốt đất đang cao” mà khắp nơi, từ nông thôn đến thành thị chỗ nào thấy dăm ba người ngồi trong quán nước phía Bắc hay quán cà phê phía Nam thì y như rằng họ đang bàn về Đất. Một thửa ruộng đất nông nghiệp, một góc ao làng lấn chiếm, một rẻo đất lấn sông hay một vạt đất ven đường lộ…bỗng chốc hoá thành vàng. Hôm qua 2 triệu một sào đất, vừa sang tay cầm đồng tiền còn nóng hổi trên tay. Hôm nay có thể đã 2 triệu một mét vuông. Ngày mai, ngai mốt đã gấp nhiều lần số ấy…Từ đó nào đâu chỉ có “nhạc tình rơi vãi” mà hệ luỵ kéo theo cơ man nào là rắc rối. Dòng đời êm trôi đang lặng sóng nhất là làng quê thôn xóm..Bỗng chốc cơn bão giá nhà đất ào tới xô nghiêng tất cả…Tình người rơi theo tỷ lệ thuận với giá nhà đất tăng cao.. 
Vẫn là “khi ta về..” nhà thơ bắt gặp và có lẽ tận mắt chứng kiến: 

Từng ngôi nhà hối hả mọc chông chênh 
Vội thay mặt chủ sau mỗi lần được giá 
Vườn ruộng ông cha giờ cháu con đem mặc cả 
Tấc đất tấc vàng 
Trong hai tiếng bán buôn. 

Còn nỗi đau nào hơn đến với những người tạo dựng cơ nghiệp mong để lại cho đời sau chút đất hương hoả. Gặp cơn bão sốt đất cuốn về tình nghĩa cuốn theo, lòng người nghiêng ngả. Nhà thơ gặp “vườn ruộng ông cha giờ cháu con mặc cả…” là còn đỡ hơn nhiều so với ngay gần nơi tôi sống… Chính con đẻ của người khuất núi còn đang tâm thuê người dời mộ cha mẹ của mình về quê để lấy đất bán…Dù hai ngôi mộ ấy nằm gọn một góc mảnh vườn..Và tấc đất ấy không chỉ là “tấc đất tấc vàng” mà nó còn đào luôn cả chữ hiếu chữ tâm đi chôn xuống ba tấc đất cùng lương tâm của những đứa con cạn tình hết nghĩa… Tất cả bóp nát, vo tròn theo “hai tiếng bán buôn”. Một khổ thơ chất chứa tình thơ nặng trĩu…kéo theo hai chữ tình người ngả nghiêng bởi “tấc đất tấc vàng”. 

Lại vẫn là “Khi ta về…”nhà thơ bắt gặp những nỗi niềm xót xa…xót xa đến quặn thắt lòng người chứng kiến để rồi bật lên thành những câu thơ ..nấc nghẹn khắc khoải… 

Khi ta về nước mắt mẹ đang tuôn 
Một hố lầy hoang cũng giật giành xỉa xói 
Anh em nhìn nhau nghi ngờ soi mói 
Chửi rủa trước nhà 
Dao búa sau lưng. 

Như đã nói một vạt đất lấn chiếm bỗng chốc hoá vàng. Ở đây trước mắt nhà thơ chỉ có “một hố lầy hoang..”, vậy mà “anh em nhìn nhau nghi ngờ soi mói”, giành giật xỉa xói” không xong…sẵn sàng quay ra “chửi rủa trước nhà..” hậu quả mang đến là “dao búa sau lưng” . Anh em ruột thịt bất chấp “nước mắt mẹ đang tuôn” còn nỗi đau xé lòng nào hơn thế ! khi những bậc làm cha làm mẹ một đời tần tảo chắt bóp nuôi con để hôm nay chúng đối xử với nhau bằng “dao búa” cũng chỉ bởi tại “tấc đất tấc vàng”. Vàng đâu chưa thấy, chỉ thấy tình nghĩa đảo điên lòng người se thắt héo hon rớt rơi theo nước mắt của những người mẹ… 

Mẹ một đời người vẫn buôn thúng bán bưng 
Thương đàn cháu đói lại đường xa chạy gạo 
Đất chưa hóa vàng đã từng giờ rỉ máu 
Bao nhân nghĩa cuộc đời theo nước lã trôi sông. 

Lại là một cảnh đời éo le đập vào trước mắt nhà thơ. Hình ảnh người mẹ lam lũ “một đời người vẫn buôn thúng bán bưng” chứ nào đâu giàu có gì cho cam. Nước mắt chảy xuôi lòng mẹ bao la nào nỡ bỏ đàn cháu đói.. ‘lại đường xa chạy gạo”. Xưa các con còn nhỏ mẹ “vẫn một đời buôn thúng bán bưng”chạy từng bữa ăn lo cho chúng tới nay trưởng thành dựng vợ gả chồng sinh con ..những tưởng mẹ sẽ được an hưởng tuổi già vậy mà…Cũng bởi tại “tấc đất tấc vàng”. Đất chưa hoá vàng…vậy mà đã “giành giật xoi mói” ..rồi phải dùng đến cả “dao búa” để mà nói chuyện…người xưa nói “một giọt máu đào hơn ao nước lã” ngày hôm nay nhà thơ đã thấy, tôi đã thấy và có lẽ nhiều bạn đọc đã thấy “ bao nhân nghĩa cuộc đời theo nước lã trôi sông”.Còn đâu là máu mủ ruột rà thân thích..tất cả bị một bộ phận không nhỏ những con người trong xã hội,coi đồng tiền là trên hết làm vấy bẩn hay nói rõ hơn là bôi bẩn, gạch xoá chữ tâm, chữ tình, chữ hiếu ở đời, chỉ vì lòng tham cầm chẳng đặng bị đồng tiền cuốn trôi dìm xuống… 
Còn đây một nỗi niềm “Khi ta về…”nữa của nhà thơ… 
Khi ta về biết em nhớ hay không? 
Hàng dâm bụt tuổi thơ đã không còn đó nữa 
Một bức tường vôi mảnh chai găm tua tủa 
Ngăn trở lòng người 
Cứa nát những vì sao. 
Chút kỷ niệm thời ấu thơ đến khi biết thầm thương, trộm nhớ, rồi yêu,với cô bé nhà bên chung một bờ giậu của nhà thơ. Có lẽ là hy vọng niềm vui dẫu mong manh còn sót lại cũng tan biến ngay khi bắt gặp “ một bức tường vôi mảnh chai găm tua tủa” thay chỗ “hàng dâm bụt..”. Đã bị “ngăn trở lòng người” thì làm sao biết được “em nhớ hay không”. Những mảnh chai găm tua tủa kia “cứa nát những vì sao” ? Hay cứa nát ánh mắt dõi sang nhà hàng xóm cùng trái tim của nhà thơ đây nhỉ?...”Khi ta về…” nghe sao đắng chát… Hình như lát cắt này làm nhà thơ hụt hẫng thì phải… 
Ta bàng hoàng nghe vị đắng nỗi đau 
Đất cao giá biến nụ cười em băng giá! 
Người yêu cũ nay bỗng dưng xa lạ 
Hỏi tại người 
Hay tại đất 
Mẹ ơi? 

Tấc đất tấc vàng, dẫu chưa hoá thành vàng. Đã khiến máu đào rỉ, tình nghĩa hiếu hoà rụng rơi, nay thêm tình xưa nghĩa cũ…cũng là hàng xóm láng giềng trở thành xa lạ. “Nụ cười em băng giá” chỉ vì “đất cao giá..” Cao giá lên em đã bán cả “hàng dâm bụt”? để cho “bức tường vôi…” mọc lên thế chỗ. Bạc như vôi vốn là câu nói của người xưa để lại…”Ta bàng hoàng nghe vị đắng nỗi đau” cũng phải thôi! Tình đời, tinh người đã nghiêng ngả theo cơn sốt đất ngay từ lúc đầu tiên “Khi ta về…” rồi mà… 
Nhà thơ muốn hỏi “ tại người? hay tại đất? câu hỏi này nhà thơ hỏi chỉ để hỏi mà thôi. Bản thân tác giả, bản thân tôi, và có lẽ có nhiều bạn đọc khác nữa đã có câu trả lời cho riêng minh khi đọc đến hai chữ “Mẹ ơi!” của nhà thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn. 
Cơn Sốt Đất bài thơ đã khắc hoạ rõ nét một bức tranh mang gam màu xám của xã hội khi cơn bão “sốt đất nóng nhà” mang đến. Một bộ phận không nhỏ người dân đã bị lòng tham vật chất làm lu mờ, che khuất tình người, dìm chết tình thân, đạo hiếu ở đời. Ta có thể gặp bất cứ ở đâu trên khắp đất nước từ thành thị đến nông thôn, từ người giàu thành đạt tới người nghèo thất học…Nhan nhản trên báo đài…có khi ngay cạnh nhà bạn nhà tôi, nhà tác giả… Bất chấp luân thường đạo lý họ coi đồng tiền là trên hết ….nhiều nhất là khoảng hai chục năm trở lại đây… 
Cơn Sốt Đất của nhà thơ Thanh Trắc Nguyễn Văn tôi đã đọc, đã đồng cảm và tôi đã viết…Mong tác giả và bạn đọc hãy coi đây là cảm xúc của riêng cá nhân tôi cùng cái nhìn một chiều, mang theo gam màu xám…những suy luận và cảm ý thơ trong Cơn Sốt Đất có thể chưa hẳn đúng với phần đông bạn đọc và cảm xúc của tác giả. Rất mong được lượng thứ và bỏ qua. 

Sài Gòn 8/7/2014 
Huỳnh Xuân Sơn 

Mép Nước Hồ Tây- Hạt Cát Diệu Sinh

MÉP NƯỚC HỒ TÂY - Hạt Cát Diệu Sinh

Năm Mươi Năm, một nửa thế kỷ, hơn nửa đời người…Liệu thời gian ấy có quá dài hay quá ngắn với bạn, với tôi, và với những người hay hoài niệm? Khi nâng niu cất giữ những kỷ niệm bên mình như những báu vật. Vậy mà Năm mươi năm về trước. Có một người phải xa một người... để rồi năm mươi năm sau ta được chiêm nghiệm một tác phẩm mang tên 
MÉP NƯỚC HỒ TÂY 

Năm mươi năm ... 
mép nước Tây Hồ 
thơ ấu một thời hiển hiện 
Nhớ ngụp lặn bùn lầy ốc hến 
Bê rổ đầy Trùng trục 
cùng 
Lem luốc trùng trục anh. 
Nhớ rón rén mép nước xanh 
Đám cỏ gà hẫng tụt 
Hì hóp nhìn cá cua chạy mất 
Nhếch nhác hình hài... mếu cười 
Quần áo rong rêu... xước cẳng, vều môi 
Mắt vẫn dõi cá ve cờ xanh đỏ 
Thò tay chộp ngoé con ôm lá cỏ 
Chạy toé tung khi thấy đỉa ngo ngoe... 
... 
Rồi chiến tranh. 
Anh đi 
nghẹn Tây Hồ 
mưa gió ngày về vùi trong lửa đỏ. 
Biền biệt niềm thương nối nhớ 
biền biệt mùa sấu non 
biền biệt phượng già hoa đỏ như son 
biền biệt bằng lăng lối về tím lịm 
ngày cũ tháng xưa... Biền biệt 
Ta thành xa lạ trong nhau 
hai ngả đi về không nhau. 
.... 
Chiều Hồ Tây năm tháng thay màu 
Năm mươi năm 
Lại về Hồ Tây - 
mép nước…(Hạt Cát Diệu Sinh) 

Hạt Cát _ Diệu Sinh chính là tác giả bài thơ ấy. Với một mệnh phụ bước vào tuổi gần thất thập, sẽ có bao nhiêu điều muốn nhắc nhớ, muốn hoài niệm. Nhưng nhắc ai? nhớ điều gì? hẳn mỗi người, mỗi tuổi mỗi khác nhau. Nữ sĩ Hạt Cát Diệu Sinh dù hiện tại đang sống ở Hà Nội vậy mà cũng phải: 
Năm mươi năm 
Lại trở về Hồ Tây 
Mép Nước… 
Thắng cảnh Hồ Tây nên thơ, đẹp như tranh vậy. Sao chỉ có “mép nước..” hồ làm tác giả bâng khuâng “Chiều Hồ Tây năm tháng thay màu”. Màu chiều chẳng thể thay đổi dẫu bao lâu. Ráng chiều đổ xuống bốn mùa có màu sắc riêng của 
mình. Dáng nữ sĩ hôm nay thả bộ tới “mép nước” có khác và hẳn là khác nhiều so với Năm mươi năm trước. Tóc đã phai màu, làn da nay đã có mấy chị em đám đồi mồi thăm viếng rồi chẳng chịu dời đi cứ bám riết. 
Ven hồ năm mươi năm trước là những “đám cỏ gà” dập dềnh theo mặt nước. Những hang cua, hang ếch ăn nham nhở bờ đất. Giờ đây là bờ kè lát đá một màu xám ngoét. 
Duy chỉ có mặt nước hồ là luôn xao động bất kể nắng mưa, sáng lên hay chiều xuống. Tác giả dạo bước trước sự thay đổi đến ngỡ ngàng liệu có ước ao mình có tâm trạng giống nữ sĩ Hồ Xuân Hương: 

Phong cảnh Hồ Tây chẳng khác xưa 
Người đồng châu trước biết bao giờ .(Nhớ Bạn Chiều Hồ Tây) 

Hồ Tây nay đã thay đổi hẳn nhiên rồi. Nhưng có những cảnh vật nơi đây đã biến mất mà kỷ niệm gắn liền với nó thì vẫn còn nguyên trong góc khuất trái tim tác giả. Nhiều lúc cứ tưởng như nó đã ngủ yên suốt mấy chục năm qua, giờ đây bỗng trở dậy xô bật cửa trái tim vùng ra. Tất cả bắt nguồn cũng từ“mép nước” Hồ Tây cách đây nửa thế kỷ 

Năm mươi năm ... 
mép nước Tây Hồ 
thơ ấu một thời hiển hiện 
Nhớ ngụp lặn bùn lầy ốc hến 
Bê rổ đầy Trùng trục 
cùng 
Lem luốc trùng trục anh. 

Cái “mép nước” của Hồ Tây thơ mộng này,cũng chính là nơi lưu giữ kỷ niệm của tác giả để giờ đây trái tim người thiếu phụ đập rộn ràng khi thấy“hiển hiện” những buổi “ngụp lặn..” mò trong “bùn lầy” để mà bắt “ốc hến”.Có những hôm (có lẽ) tác giả là người “bê rổ đầy Trùng trục” ( một loài ăn thịt họ nhà trai nhưng nhỏ hơn, dài hơn và nhiều thịt hơn..) Cùng với “ người ấy” cũng đang “lem luốc…” nhưng lại trần “trùng trục”. Hai từ trùng trục đi liền trong hai câu thơ mang hai nghĩa hoàn toàn khác nhau có tác dụng nhấn mạnh đặc biệt. Mà với riêng tôi thì “trùng trục anh” thật ấn tượng. Mà nghĩ cho cùng, dẫu chẳng còn thời “cởi truồng tắm mưa” với nhau nữa. Nhưng làm con trai ai lại mặc áo đi mò ốc, bắt cua bao giờ. Có lẽ nhờ “lấm lem” và “trùng trục” nên mới có “rổ đầy Trùng trục” cho tác giả bê. Để hôm nay đứng ngây ra mà nhớ, nhớ tới cồn cào… Kỷ niệm còn vương nơi “mép nước” đâu chỉ có vậy… 
Nhớ rón rén mép nước xanh 
Đám cỏ gà hẫng tụt 
Hì hóp nhìn cá cua chạy mất 
Nhếch nhác hình hài... mếu cười 
Quần áo rong rêu... Xước cẳng, vều môi 
Mắt vẫn dõi cá ve cờ xanh đỏ 
Thò tay chộp ngoé con ôm lá cỏ 
Chạy toé tung khi thấy đỉa ngo ngoe... 

Ai bị “hẫng tụt” bởi “đám cỏ gà” lừa bên “mép nước xanh” tác giả không nói rõ. Có lẽ là tác giả hay là “trùng trục anh”, có khi là cả hai cùng “hẫng tụt một lúc”. Để rồi khi leo lên được thì hỡi ơi, miệng cười, miệng mếu với bộ dạng nhếch nhác. Quần áo rong rêu mắc đã đành. Còn thêm bị “xước cẳng vều môi”. Nhưng vẫn chẳng chừa tội “mê cá ve cá cờ” mấy con cá hay chúi trong hang khi trời nắng ấy…Ôi! Tác giả nghịch có lẽ cũng nhất trong số những cô cậu đứng “thứ ba” thì phải. Ai đời con gái đi “chộp ngoé con ôm lá cỏ” bao giờ. Nghịch thì nghịch vậy đấy nhưng chỉ phút chốc thôi lại trở về bản chất nhát như cáy của mấy cô gái “ chạy toé tung khi thấy đỉa ngo ngoe”. Bao nhiêu hồi ức ùa về bên mép nước để cho kỷ niệm chất chồng lên kỷ niệm thuở ấu thơ với “trùng trục anh”. 
... 
Thời gian lặng lẽ trôi, Đất nước vừa khai sinh lại phải chia đôi rồi bùng nổ chiến tranh…nếu không nhầm thì cột mốc Năm mươi năm bắt đầu từ lúc“trùng trục anh” lên đường ra trận. 
Khổ thơ được ngăn cách bằng một khoảng lặng đủ cho dòng cảm xúc lắng lại: 

Rồi chiến tranh. 
Anh đi 
nghẹn Tây Hồ 
mưa gió ngày về vùi trong lửa đỏ. 
Biền biệt niềm thương nỗi nhớ 
biền biệt mùa sấu non 
Biền biệt phượng già hoa đỏ như son 
biền biệt bằng lăng lối về tím lịm 
ngày cũ tháng xưa... Biền biệt 
Ta thành xa lạ trong nhau 
hai ngả đi về không nhau. 

Nhịp thơ trầm trầm khắc khoải như nỗi lòng người đợi trông. Đợi trông mà không biết ngày trở lại… Năm từ biền biệt trong một khổ thơ có là quá nhiều? không! có lẽ còn chưa đủ. Anh đi là biền biệt. Hồ Tây còn nghẹn, huống chi lòng người ở lại. Anh đi biền biệt lúc sấu mới vừa đậu trái nghĩa là đầu hạ…những tưởng nhanh thôi! để rồi hạ ùa về hoa phượng nở mang theo nỗi lòng kẻ đợi người đi biền biệt…”Phượng già hoa đỏ như son”? hay lòng người chờ đợi sắt son? 
Biền biệt mùa bằng lăng mới tràn đầy khắc khoải…Màu hoa ấy khiến cho “lối về tím lịm” hay nỗi nhớ thương chìm đắm nỗi buồn vương theo màu tím. Những biền biệt ấy còn chưa đáng sợ bằng “ngày cũ tháng xưa biền biệt”. Viết tới đây bỗng nhiên tôi nhớ tới ca khúc “Mùa hoa cải ven sông” và tôi cũng muốn tác giả và bạn đọc cùng nghe một đoạn ca từ “Chiến tranh không ước hẹn./ Sợ làm con bướm trắng./ Thẫn thờ chiều bên sông./…Thế rồi thế rồi em…./ Đợi anh mặc hoa trôi./ Đợi anh trong khắc khoải..” Để rồi người con gái trong ca khúc ấy “buồn thương hoa héo hắt” và nghe “ai cũng bảo phải quên./ Em đành bước sang ngang./ Gửi mùa xuân ở lại./ Gửi con tim cháy mãi./ Cho người mình chờ mong”… Người con gái trong "Mùa hoa cải ven sông" của nhạc sĩ Lê Vinh có bao nhiêu nét tương đồng và tâm trạng giống tác giả của chúng ta? Câu hỏi này có lẽ Hạt Cát Diệu Sinh là người trả lời đúng nhất. Tôi và bạn đọc chỉ có quyền phỏng đoán mà thôi… 
Hai câu thơ cuối khổ tác giả đã viết “ta thành xa lạ trong nhau..." và “hai ngả đi về không nhau”. Với riêng tôi sau khi đã đi suốt chuyến đò ký ức để về bên “mép nước” Hồ Tây cùng tác giả. Tôi nghĩ "hai ngả đi về không nhau” là sự thật. Nhưng ít nhất là từ phía tác giả, trong trái tim luôn có bóng dáng một người… người mà năm mươi năm trước đã Ra đi bởi chiến tranh…Tôi khẳng định vậy bởi tôi cũng là phụ nữ và không thể nào có bài thơ Năm Mươi Năm nếu tác giả quên phéng “trùng trục anh” ngày nào? 
Cám ơn tác giả Hạt Cát Diệu Sinh đã cho tôi có dịp đồng hành với những kỷ niệm ngọt ngào thủa ấu thơ, cho đến tuổi cập kê vẫn vô tư trong sáng và đẹp lấp lánh như bình minh chiếu tia nắng trải mặt hồ phẳng lặng… Năm mươi năm không là dài nhưng cũng chẳng phải ngắn để mà nâng niu gìn giữ những kỷ niệm ấy… 

Sài Gòn 3/7/2014 
Huỳnh Xuân Sơn 

BẾN ĐỢI Của Lê Thanh Bình



 
BẾN ĐỢI!


Không biết từ bao giờ? Bắt đầu ở đâu? Do ai phát hiện ra? Mà cứ mỗi khi mùa hè về lại có tiếng ve cất lên. Nếu có phải bộn bề công việc mưu sinh hoặc do nơi sinh sống chẳng phân ra ranh giới bốn mùa rõ rệt, thì cứ nghe tiếng râm ran của dàn đồng ca ấy cất lên là biết hạ đã về…
Hạ về! lại là khởi nguồn cho bao hoài niệm của thời tuổi hồng. Mỗi tuổi mỗi hoài niệm khác nhau. Hình như không ai giống ai cả…
Mùa hạ cũng là khởi nguồn cho cảm xúc thơ ca dâng trào… Thơ về mùa hạ thì nhiều vô kể như lớp lớp sóng trên sông. Không con sóng nào, giống con sóng nào cả… Và Bến Đợi của tác giả Lê Thanh Bình là một con sóng đặc biệt trên dòng sông thơ mùa hạ đang trôi.

Bến Đợi
(Tặng Một Người)

Tiếng ve thao thiết gọi hè
Khiến người day dứt lời thề... bến xưa
Con sông ngày đứng tiễn đưa
Nửa bên nắng, nửa bên mưa rối bời...

Người đi như cánh chim trời
Để người ở lại bời bời ngóng trông
Dặn nhau giấu nhớ vào trong
Mà sao lại cứ mỏi mong thành lời...

Lời yêu ai thả cuối trời
Để ve khản tiếng ca bài hạ sang
Chia phôi cắt nửa vầng trăng
Ai đo nỗi nhớ thử bằng bao nhiêu???

Lê Thanh Bình

Bài thơ với lời đề tựa “Tặng một người”. Mạch thơ như một tiếng lòng kìm nén lâu năm nay bật lên… Một chủ đề cũ, một thể thơ cổ, được tác giả viết về một hoàn cảnh ra đời không mới (chia tay, đợi chờ, mong nhớ) Nhưng để chuyên chở được những cái cũ, tưởng như đã rất cũ ấy lại là những ngôn từ mới, những ý thơ mới trẻ trung và khác lạ.. mang dấu ấn riêng của người cầm bút rất riêng biệt.

Tiếng ve thao thiết gọi hè
Khiến người day dứt lời thề… bến xưa
Con sông ngày đứng tiễn đưa
Nửa bên nắng, nửa bên mưa rối bời…
Người ta thường cảm nhận tiếng ve rộn rã gọi hè! ở đây tác giả thấy tiếng ve thao thiết như tiếng lòng đang bồi hồi trong “day dứt lời thề…”. Bến xưa có một người, tiễn một người! bến sông ấy ở con sông nào vậy? Suốt dải đất hình chữ S chẳng có vùng nào có hiện tượng thời tiết "ác" đến vậy… Vậy chỉ có thể đấy là một con sông vô hình ngăn cách dòng tình cảm. Bởi nó chia đôi thành: “Nửa bên nắng, nửa bên mưa”... Bên mưa thì “rối bời”… nhưng còn “bên nắng” thì sao? Hay vì bên mưa rối bời mà không để ý tới bên nắng cũng đang như mối tơ vò đấy thôi!
Một khổ thơ đầy tâm trạng nhưng tràn ý thơ… Tiếng ve thao thiết này liệu có tiên tri như:

Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước
Con ve tiên tri vô tâm báo trước
Có lẽ một người cũng bắt đầu yêu
Muốn nói bao nhiêu, muốn khóc bao nhiêu 
(Chiếc Lá Đầu Tiên- Hoàng Nhuận Cầm)…
Tiếng ve và hai nửa bên mưa, bên nắng ra sao? Ta đành phải nhờ tác giả trả lời để cùng đi tiếp
Người đi như cánh chim trời
Để người ở lại bời bời ngóng trông
Dặn nhau giấu nhớ vào trong
Mà sao lại cứ mỏi mong thành lời…

Có lẽ bên nắng đã là “người đi…” mà đi mải miết như “cánh chim trời”. Không hẹn ngày trở lại và chắc cũng chưa một lần trở lại Bến Xưa…
Bên mưa ở lại… nhạt nhoà… dõi mắt “ngóng trông”, mà trong lòng thì “bời bời” nỗi nhớ! Biết là chẳng thể quên đồng nghĩa với nhớ ùa về… Biết là đã mắt nói với mắt, lòng dặn với lòng. Hai trái tim nói với nhau “giấu nhớ vào trong”. Dặn thì dặn thế… Nhưng biết giấu đi đâu? Nơi nào đồng loã cho cất giấu nỗi nhớ? lại không có ai chỉ đường dẫn lối cho biết. Có khi càng muốn giấu, lại chính là không thể giấu được, cho nên: “Mà sao lại cứ mỏi mong thành lời”…
Hai câu thơ này cũng chính là hai tia sáng lấp lánh nhất làm điểm nhấn trong bài thơ!
Ngày trước nhà thơ Hoàng Nhuận Cầm cũng có những nỗi nhớ rất đặc biệt

Nỗi nhớ đầu anh nhớ về em
Nỗi nhớ trong tim em nhớ về mẹ
Nỗi nhớ chẳng bao giờ nhớ thế
Bạn có nhớ trường nhớ lớp nhớ tên tôi
(Chiếc Lá Bên Thềm)

Có nỗi nhớ nào trong số nỗi nhớ của thơ Hoàng Nhuận Cầm ở trên đây, là nỗi nhớ mà hai nửa bên mưa, bên nắng dặn nhau “giấu nhớ vào trong” không?.. Điều này có lẽ chỉ có tác giả và “một người” được tặng bài thơ này mới trả lời được…
Căn nguyên dẫn đến nỗi nhớ mong mỏi phải bật lên bài thơ này đã phần nào lộ diện qua khổ kết:

Lời yêu ai thả cuối trời
Để ve khản tiếng ca bài hạ sang
Chia phôi cắt nửa vầng trăng
Ai đo nỗi nhớ thử bằng bao nhiêu???

Chỉ vì một lời yêu, nào có phải dành cho mình đã đành! Ai là ai? Mưa hay nắng? Mà đang tâm đành đoạn mang “thả cuối trời”! Để rồi mỗi khi hạ về bằng lăng tím nở bên đường… bầy ve rộn ràng ca hát chào cái nắng nồng mùa hạ… đẹp là thế, sống động vui tươi là thế… mà để ai kia bồi hồi thổn thức mà ngỡ chúng “khản tiếng”.
Hạ sang, nỗi nhớ ùa về ngổn ngang… Ai nỡ cắt đi một nửa vầng trăng? phải chăng là “nửa bên nắng” bay đi như cánh chim trời mang theo cả lời yêu “thả cuối trời” xa tít… Nửa bên mưa ở lại… ngóng chờ, mong nhớ để rồi năm tháng lạnh lùng trôi qua… Tóc đã phai màu nắng, mây tím hoàng hôn đang buông rất gần… Chẳng thể đong đếm được kể từ buổi tiễn đưa “rối bời” ấy. Mỗi bên đã giấu được bao nhiêu nỗi “nhớ vào trong”… Biết bao nhiêu lần thao thiết nhớ thương thả hồn theo những âm thanh gọi mùa sang… nghèn nghẹn… Nén lòng… để rồi bật lên tiếng than! Không… hình như là câu hỏi! mà có lẽ là một sự đánh đố “Ai đo nỗi nhớ thử bằng bao nhiêu???”. 
Ba dấu hỏi mà tác giả đặt ở cuối bài cùng câu thơ ấy. Tôi thấy lấp lánh viên đá quý chứa đựng trong nó chiều dài của nỗi nhớ mong, chiều rộng của nỗi nhớ thương, có sức nặng của chữ tình…

Một Bến Xưa ngọt ngào không hề xưa cũ chính là Bến Đợi mà tác giả mong “tặng một người”…
Tôi xin mượn một đoạn ca từ trong ca khúc Tình Nhớ của cố nhạc sĩ Trịnh Công Sơn để kết cho bài viết này và cũng là một lời chia sẻ gửi tới “nửa bên mưa” Của tác giả Lê Thanh Bình.
Tình ngỡ đã quên đi. Như lòng cố lạnh lùng. Người ngỡ đã xa xăm bỗng về quá thênh thang… Tình ngỡ đã phôi pha. Nhưng tình vẫn còn đầy. Người ngỡ đã đi xa. Nhưng người vẫn quanh đây ….
(Tình Nhớ- Trịnh Công Sơn)

Sài Gòn 9/6/2014
Huỳnh Xuân Sơn 

BÙI XUÂN PHÁI Của Nguyễn Vũ Tiềm


Cảm Nhận Bài Thơ Bùi Xuân Phái Của Nhà Thơ Nguyễn Vũ Tiềm 



Bùi Xuân Phái là một trong những họa sĩ thuộc lớp họa sĩ cuối cùng của trường Mỹ Thuật Đông Dương. Ông vẽ rất nhiều đề tài nhưng có lẽ dòng tranh về phố cổ Hà Nội là được biết đến nhiều nhất và ngay khi còn đương thời thì giới thưởng ngoạn tranh đã đặt cho ông một cái tên rất thân thương: Phố Phái. Nói đến tranh về Hà Nội đặc biệt là Hà Nội cổ kính rêu phong không ai lại không nhắc đến Phố Phái.
Nguyễn Vũ Tiềm cũng không ngoại lệ khi viết về Thăng Long Hà Nội ông đã chọn người họa sĩ tài ba này để viết trong tập thơ Sương Hồ Tây Mây Tháp Bút:

Bùi Xuân Phái

Thời gian mối mọt

Nghiến vào quên nhớ trong ta

Kỷ niệm chờ san ủi

Hương khói ông bà chờ khoan cắt bê tông

Búa tạ nện vào ký ức

Thanh lịch thuở nào vào gầu xúc đổ đi



Có chàng hiệp sĩ vung cây cọ

Chấm vào thương nhớ mờ xa

Chạy nước rút cuối chặng đường thế kỷ

Níu giữ vui buồn thần thái phố xưa (Nguyễn Vũ Tiềm )

Mở đầu bài thơ ông làm tôi sững sờ với cách đặt vấn đề, khi ông ví thời gian với mối mọt, mà ông còn để cho mối mọt nghiến vào trí nhớ nữa lại càng làm cho người đọc phải động não.

Viết về một họa sĩ với biệt danh Phố Phái. ông dẫn người đọc vào thế giới của sự lãng quên bởi nghiệt ngã của thời gian. Thật lạ lùng và khiến trí tò mò nổi lên để tôi theo tiếp những vần thơ của ông.

Trời ạ ! ông trăn trở ông suy tư nặng lòng về Hà Nội đến mức mà ông dùng một loạt động từ nào là san ủi, khoan cắt, nện, xúc để diễn tả sự mất mát cả cái hữu hình đến cái vô hình trong Hà Nội hôm nay.
Kỷ niệm thì chờ san ủi.
Hương khói ông bà chờ khoan cắt bê tông.
Hai câu thơ làm nhức nhối lòng người đọc. Những làng hoa một thời nên thơ, vào nhạc và hiện hữu trong tranh như Ngọc Hà gần như biến mất. Nghi Tàm, Quảng Bá , Nhật tâncũng đang rầm rộ san ủi, chẳng còn mấy diện tích cho hoa. Những làng hoa ấy đã bao thế hệ người Hà Nội lưu giữ kỷ niệm về nó. kỷ niệm nào ai nỡ để cho máy ủi san ủi như họ đang san lấp mặt bằng khắp nơi rầm rộ kia. Nếu còn sót lại chút ít thì cũng chỉ là đang Chờ mà thôi…
Và ngay cả những căn nhà từ đường làm nơi thờ tự ông bà thì lớp con cháu đời sau cũng bị cuốn theo guồng xoáy của cơn lốc phát triển mà sẵn sàng phá.Ngày nay dẫu được bảo tồn theo qui định nhưng những ngôi nhà trong khu phố cổ cứ lần lượt biến mất, những bức tường mái ngói cổ kính rêu phong mỗi ngày một ít đi nếu không bị “khoan cắt bê tông” thăm hỏi. thì cũng bị xuống cấp trầm trọng.
Khi mà kỷ niệm bị san ủi. Còn khoan cắt bê tông đến để dỡ bỏ cả nơi thờ tự ông bà thì quả thật quá đau xót cho những người nặng lòng với “thần thái phố xưa” như tác giả. Ta không ngạc nhiên khi ông phải bật ra những câu thơ đau xót và nặng trĩu “Búa tạ nện vào ký ức”. chữ nện cho ta cảm giác tan vỡ hết rồi chỉ một chữ nện mà khiến người đọc phải trăn trở phải nặng lòng, phải suy ngẫm về hậu quả hiển hiện trước mắt.
Vẫn chưa hết sau cú nện chát chúa, vỡ tan cả ký ức ấy. tác giả bồi thêm một câu thơ
“Thanh lịch thuở nào vào gầu xúc đổ đi”
Nét thanh lịch của người Hà nội bao đời nay ăn sâu trong tiềm thức mỗi người dân Việt như :
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An (Ca dao)
Vậy mà hôm nay tác giả để cho cái gầu xúc vô tri vô giác kia lạnh lùng xúc đổ đi. Một câu thơ sâu xa và nặng trĩu với nhiều nghĩa. Một nét đẹp của người Hà Nội sao ông nỡ phũ phàng vậy. Nhưng ta hãy nhìn vào thực tế hôm nay nét đẹp ấy mai một mỗi ngày mỗi mất dần như cái hành động xúc đổ đi kia chẳng thể xúc một lần mà hết, nhưng lần lần sẽ hết và mất hẳn.
Tôi chỉ xin đơn cử một dẫn chứng cho sự mất đi này năm 2008 Hà Nội tổ chức lễ hội hoa anh đào của Nhật Bản mang sang trong lễ hội đó hình ảnh để lại trong mắt bạn bè quốc tế và những ai yêu nét thanh lịch người Hà Nội là cảnh cướp hoa bẻ cành của một bộ phận giới trẻ trước sự bất lực của ban tổ chức. Hậu quả là cho tới nay hoa anh đào từ Nhật không xuất hiện trong lễ hội nữa.
Chưa hết năm 2010 ngay sau lễ bế mạc lễ hội hoa ngày 4/1 nam thanh, nữ tú, ông già, bà cả, có đủ. Lao vào cướp hoa. Sự xuống cấp của nét thanh lịch thấy rõ như vậy đó
Bây giờ thì tác giả mới viết về người họa sĩ tài ba Bùi Xuân Phái bằng hình ảnh: “Vung cây cọ” để “chấm vào thương nhớ” thôi . Nhưng thương nhớ của họa sĩ và có lẽ cả của tác giả nữa chăng đã “mờ xa”. Nên họ phải cố gắng “chạy nước rút”
Có chàng hiệp sĩ vung cây cọ
Chấm vào thương nhớ mờ xa
Chạy nước rút cuối chặng đường thế kỷ
Níu giữ vui buồn thần thái phố xưa
Bùi Xuân Phái đã dành phần lớn cuộc đời họa sĩ của mình để vẽ về phố cổ Hà Nội với mong muốn níu giữ lại những nét đẹp cổ kính, níu giữ cái thần thái phố xưa với những nét vẽ trăn trở như sợ nếu không vẽ rồi nó sẽ biến mất trong tích tắc.
Thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm viết về Bùi Xuân Phái nhưng ông đã đồng cảm, đã trăn trở và khắc khoải cùng từng nét vẽ của Phố Phái. qua từng câu thơ mang đậm dấu ấn hồn tranh của Phố Phái.
Ai đã từng ngắm tranh của Bùi Xuân Phái vẽ về phố cổ Hà Nội và đọc thơ của Nguyễn Vũ Tiềm viết về Bùi Xuân Phái. Ta đều thấy họ đã gửi gắm những kỷ niệm, những hoài cảm, cùng nỗi buồn man mác tiếc nuối bâng khuâng trên từng nét vẽ, từng câu thơ. Và có cảm giác như họ cùng cố gắng níu lại từng mái nhà cổ, từng nét rêu phong trên những bức tường, và níu giữ từng nét đẹp của người Hà Nội xưa.
Hôm nay đã và đang dần mai một và mất đi trước mắt họ.
Sài Gòn 19/11/2013
Huỳnh Xuân Sơn